Năm 1968, thị trường vàng thỏi London (LBMA) - thị trường kim loại quý lớn nhất thế giới - đã đóng cửa trong vòng hai tuần vì cơn sốt đầu cơ vàng trong bối cảnh nền kinh Mỹ gặp khó khăn và đồng đô la mất giá mạnh. Cuộc khủng hoảng này đã đánh dấu sự kết thúc của hệ thống Bretton Woods kể từ năm 1944, cụ thể của chính sách này là các quốc gia xây dựng chính sách ngang giá dựa trên đồng đô la Mỹ, còn đồng đô la Mỹ được định giá theo vàng. Có thể nói hệ thống Bretton Woods là hệ thống bản vị hối đoái vàng dựa trên đồng đô la Mỹ.
Hiện nay, các ngân hàng trung ương đang ráo riết mua vàng trở lại. Chỉ riêng trong quý ba, 400 tấn đã được chuyển vào kho dự trữ của các ngân hàng trung ương. Điều đó đã đẩy tổng lượng mua vàng từ tháng 1 đến tháng 9 lên 670 tấn, một tốc độ chưa từng thấy kể từ sự sụp đổ của thị trường vàng thỏi năm 1968.
Vào tháng 5, Thổ Nhĩ Kỳ đã mua gần 20 tấn vàng trong một lần. Ấn Độ và Qatar cũng đang ráo riết mua vàng. Kim loại này hiện chiếm 2/3 dự trữ của Uzbekistan, vài tháng sau khi nước này lên kế hoạch giảm lượng vàng xuống dưới một nửa. Kazakhstan cũng đang tăng gấp đôi lượng vàng nắm giữ.
Điều này một phần là do vàng đã trở nên hấp dẫn trở lại trong thời kỳ biến động và lạm phát cao. Về lâu dài, vàng được xem là một kho lưu trữ giá trị và không bị ràng buộc với bất kỳ nền kinh tế cá nhân nào, và dường như miễn nhiễm với tình trạng hỗn loạn chính trị và tài chính địa phương. Các ngân hàng trung ương cũng có thể nghĩ rằng họ đang có được một món hời. Mặc dù vàng có sức chống chịu tốt hơn hầu hết các loại kim loại khác, nhưng giá của kim loại này đã giảm 3% trong năm nay.
Tuy nhiên, giống như trong quá khứ, mua vàng miếng cũng là một cách để tiêu tốn đô la. Ngoại trừ lần này, không phải châu Âu mà là các thị trường mới nổi cũng lo ngại về đồng bạc xanh. Họ cần đô la để thanh toán hàng nhập khẩu và các khoản nợ nước ngoài. Nhưng dự trữ của họ chủ yếu được xây dựng từ trái phiếu kho bạc chứ không phải tiền giấy thực tế và khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tăng lãi suất, giá trị của trái phiếu chính phủ đã giảm xuống. Các ngân hàng trung ương nhỏ hơn xem đây là một gợi ý để hoán đổi chúng lấy vàng thay vì đặt cược vào cách kiềm chế lạm phát của Fed.
Mặt khác, đối với Nga, vàng còn cung cấp một cách để tránh các biện pháp trừng phạt của phương Tây, mặc dù phần lớn dự trữ của họ đã bị đóng băng kể từ tháng 3 và các ngân hàng của họ hầu như đã bị ngắt kết nối với hệ thống thanh toán quốc tế dựa trên đồng đô la. Hầu như không có ngân hàng trung ương nào giữ đồng rúp làm dự trữ ngoại hối. Đối với những quốc gia có truyền thống làm ăn với Nga - từ Thổ Nhĩ Kỳ đến Turkmenistan - vàng cung cấp một phương tiện trao đổi thay thế. Nhóm các thị trường mới nổi đa dạng này là một trong những quốc gia mua vàng lớn nhất trong khoảng thời gian này.
Đây không phải là điều mà phương Tây có thể tác động được nhiều. Vàng của Nga bị cấm bán trên thị trường London, nhưng không ai có thể lấy được vàng dự trữ của nước này. Và ngân hàng trung ương của Nga không còn báo cáo lượng vàng mà họ nắm giữ, điều này khiến các giao dịch hoán đổi không thể theo dõi được.
Trong khi đó, việc di chuyển kim loại vật chất là một vấn đề đau đầu về hậu cần, nhưng nó giữ cho các giao dịch nằm trong tầm ngắm kỹ thuật số của phương Tây, điều này rất hữu ích cho những nước giao thương với cả phương Tây và Nga – như Qatar hoặc Thổ Nhĩ Kỳ. Hội đồng Vàng thế giới (WGC) cho biết, những người mua không xác định chiếm một phần lớn trong năm nay.
Một điều an ủi cho đồng đô la là không có đồng tiền nào khác tăng giá. Tỷ lệ dự trữ ngoại hối bằng đồng nhân dân tệ trên toàn cầu đã chững lại trong năm nay. Đồng euro, đồng yên và đồng bảng Anh cũng đang giậm chân tại chỗ. Các ngân hàng trung ương có thể lên cơn sốt vàng nhưng sẽ không có sự thay đổi chế độ nào như năm 1968.
Link nội dung: https://vietnamindex.vn/tai-sao-cac-ngan-hang-trung-uong-dang-du-tru-vang-a194127.html