Agribank đang sở hữu một nhóm công ty con, trong đó có Công ty Cho thuê tài chính I (ALC I). Sau hơn 10 năm, kể từ khi IPO dang dở với con số luỹ kế cả chục nghìn tỷ đồng thì nay, lỗ luỹ kế của ALC I đã và đang giảm một cách thần kỳ xuống 794 tỷ đồng.
THƯƠNG VỤ BÁN CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH I - ALC I
Theo phân tích của một chuyên gia M&A, số lỗ luỹ kế của ALC I giảm, kết hợp với thị trường tàu biển phục hồi mạnh mẽ là những yếu tố để Agribank chiếm thế thượng phong trong đàm phán bán công ty này.
Nhớ lại bối cảnh năm 2006 về trước, sản lượng hàng hoá vận chuyển giữa Trung Quốc và châu Âu, Mỹ tăng cao, kéo theo đơn hàng đặt đóng mới tàu tăng khủng khiếp. Thậm chí, năm 2007, hầu hết tàu shipyards (xưởng đóng tàu, ụ tàu) ở Nhật, Hàn, Trung Quốc hay Việt Nam đều kín đơn tới 2012 với mức giá rất hấp dẫn.
Khoảng tháng 8/2008, giá tàu rớt nhanh chưa từng thấy, mức giảm tới 40% - 50%, dẫn đến ngành đóng tàu trong nước suy thoái. Những đổ vỡ Vinashin, Vinalines cùng các xưởng đóng tàu rải rác khắp các tỉnh duyên hải của Việt Nam phần lớn do tác động bởi cuộc khủng hoảng này.
Hoạ vô đơn chí, những tổ chức rót vốn vào lĩnh vực đóng tàu gồm có các ngân hàng, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính bị vạ lây, trong đó có ALC I. Đúng thời điểm đó, ALC I tiến hành IPO, hứa hẹn cuộc đấu giá thành công thì lâm vào thua lỗ, kế hoạch cổ phần hoá bị dừng lại cho đến tận bây giờ.
Trong hơn 10 năm đó, ALC I tìm giải pháp phục hồi hoạt động và tập trung thu hồi công nợ. Đến thời điểm này, từ chỗ các khoản nợ phải thu cả chục nghìn tỷ đồng thì tính đến đầu tháng 6/2021, số lỗ luỹ kế chỉ còn 794 tỷ đồng.
Theo đại diện Agribank, hiện có một số nhà đầu tư muốn mua ALC I có kế thừa công nợ. Nếu giải quyết dứt điểm thương vụ ALC I, ngoài việc thu được món hời, bức tranh tài chính của Agribank sẽ thêm phần cuốn hút, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình IPO vào năm 2022.
SAU 5 NĂM, DỌN DẸP NỢ XẤU ĐẾN ĐÂU?
Hơn 10 năm trước, nhắc đến Agribank, không ít người chung cảm nhận: không biết ngân hàng này hoạt động ra sao. Việc tìm hiểu con số lợi nhuận, nợ xấu, trích lập dự phòng… trên con đường minh bạch trở nên thật khó khăn.
Với Quyết định 254/QĐ-TTg ngày 1/3/2012 giai đoạn 2011 – 2015 và tiếp sau là Quyết định 1058/QĐ-TTg ngày 19/7/2017 giai đoạn 2016 - 2020 của Thủ tướng Chính phủ, Agribank đã tự nhận diện mình là ai và đang ở đâu khi mà tại thời điểm năm 2012, tổng nợ xấu của Agribank lên tới 30 nghìn tỷ đồng, tương ứng 5,8% tổng dư nợ.
Lấy mốc 31/12/2012, nợ xấu ngân hàng đang ở mức 5,8%/tổng dư nợ thì chỉ sau 3 năm, vào 2015 đã kéo tụt xuống 2,01%. Năm 2016 giảm còn 1,89% và 2017: 1,54%, giảm 0,47% so với 2015 và giảm 0,35% so với 2016; 2018: 1,6%; 2019: 1,12% và 2020 là 1,7%.
Đây là cội nguồn để ngân hàng từng bước thực hiện đề án tái cơ cấu và xử lý nợ xấu, theo cách mà giới quan sát nhìn nhận khó có thể hà khắc hơn.
Những khoản chi, từ vận hành hệ thống đến lương thưởng, thu nhập đều bị cắt giảm, áp lực công việc gia tăng, các mục tiêu đề ra tại Đề án tái cơ cấu ngân hàng đòi hỏi thực hiện chính sách “thắt lưng buộc bụng”, dẫn đến cả nghìn lao động rời bỏ sang nơi khác. Song song là chính sách đòi nợ “có một không ai”: bất kể ai quản lý khoản tín dụng chất lượng thấp, muốn thuyên chuyển nội bộ hoặc rời sang nơi khác phải làm rõ trách nhiệm xong rồi mới nói chuyện đi hay ở.
Nhờ vậy, nợ xấu ở Agribank đã hạ thấp gần như tụt thẳng đứng. Lấy mốc 31/12/2012, nợ xấu ngân hàng đang ở mức 5,8%/tổng dư nợ thì chỉ sau 3 năm, vào 2015 đã kéo tụt xuống 2,01%. Năm 2016 giảm còn 1,89% và 2017: 1,54%, giảm 0,47% so với 2015 và giảm 0,35% so với 2016; 2018: 1,6%; 2019: 1,12% và 2020 là 1,7% (Nguồn: Báo cáo tài chính Agribank qua các năm).
Mặc dù giai đoạn 2015 – 2020 nợ xấu có tăng giảm do nhiều nguyên nhân khách quan như thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh cây trồng vật nuôi hay gần đây nhất là Covid-19; tuy nhiên, nợ xấu ngân hàng vẫn trong khoảng 2%/tổng dư nợ, thấp xa so với trần nợ xấu 3% do Ngân hàng Nhà nước yêu cầu.
Chỉ tiêu | 2016 | 2017 | 2018 | 2019 | 2020 | |
Tổng tài sản (triệu đồng) |
1.001.205 |
1.151.672 |
1.281.597 |
1.451258 |
1.566.967 |
|
Lợi nhuận trước thuế |
4.212 |
4.729 |
7.552 |
13.621 |
12.966 |
|
Lợi nhuận sau thuế |
3.388 |
3.791 |
6.047 |
10.902 |
10.383 |
|
Vốn điều lệ |
29.126 |
30.355 |
30.473 |
30.591 |
30.710 |
|
Vốn chủ sở hữu |
49.231 |
53.762 |
56.707 |
67.473 |
71.417 |
|
ROA % |
0,36% |
0,35% |
0,50% |
0,80% |
0,69% |
|
ROE % |
7,05% |
7,36% |
10,95% |
17,56% |
14,95% |
|
Thuế, phí nộp NSNN |
1.359 |
1.724 |
1.907 |
4.511 |
3.584 |
|
Trong đó, thuế TNDN |
818 |
1.042 |
1.020 |
3.198 |
2.388 |
Bảng 1: Các chỉ tiêu tài chính giai đoạn 2016 – 2020. Nguồn: Báo cáo tài chính riêng lẻ các năm 2016 – 2020 đã kiểm toán.
"SOI" LÃI DỰ THU
Theo nguyên tắc hạch toán lãi dự thu được quy định tại Thông tư 16/2018/TT-BTC ngày 7/2018 của Bộ Tài chính, chỉ các khoản nợ đủ tiêu chuẩn (nhóm 1), mới được hạch toán lãi dự thu.
Trong bảng cân đối kế toán, lãi phải thu bao gồm từ nhiều nguồn; trong đó, có cả chứng khoán đầu tư sẵn sàng để bán (Trái phiếu Chính phủ) và các khoản tiền gửi của ngân hàng tại tổ chức tín dụng khác.
Năm 2020, ở Agribank, lãi phải thu từ cho vay là 8.634 tỷ đồng, chiếm 8,35%/tổng thu lãi từ hoạt động cho vay của ngân hàng; con số này của 2019 là 8,81%, đã giảm 0,46%.
Nói cách khác, đây là lãi phải thu/thu nhập lãi và con số này ở Agribank so với mặt bằng thị trường thì hết sức bình tường. Ví dụ, Vietcombank là ngân hàng có lợi nhuận đứng đầu hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam thì tỷ lệ này cũng là 5,2% trong năm 2019 và 4,25% vào năm 2020.
Còn nếu tính tỷ lệ lãi phải thu từ cho vay với khách hàng, chỉ có 0,71% trong 2020 và năm 2019 là 0,76% tổng thu nhập từ lãi.
Lãi phải thu từ cho vay là những khoản vay chưa đến kỳ thu lãi tại ngày kết thúc niên độ kế toán 31/12 hàng năm.
Năm 2020, ở Agribank, lãi phải thu từ cho vay là 8.634 tỷ đồng, chiếm 8,35%/tổng thu lãi từ hoạt động cho vay của ngân hàng; con số này của 2019 là 8,81%, đã giảm 0,46%. Đây là lãi phải thu/thu nhập lãi và con số này ở Agribank so với mặt bằng thị trường thì hết sức bình thường.
Việc ngân hàng hạch toán lãi dự thu, lãi phải thu được hiểu là lãi trong kỳ được phân bổ. Đó là lãi của các khoản nợ nhóm 1, đủ điều kiện tính lãi, không bao gồm nợ cơ cấu hay nợ nhóm 2 trở lên.
Báo cáo tài chính hàng năm của Agribank đều được kiểm toán bởi công ty kiểm toán quốc tế hàng đầu trong nhóm “big 4”, liên tục các năm gần đây được Kiểm toán Nhà nước kiểm toán số liệu hoạt động.
Đầu 2020, Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo Agribank và các ngân hàng giảm lợi nhuận để hỗ trợ khách hàng; đồng thời, tăng cường rà soát trích lập dự phòng rủi ro để tăng “bộ đệm” an toàn trước đại dịch Covid-19.
QUẢN LÝ CHI PHÍ NHƯ THẾ NÀO?
Năm 2020, nếu xét về chi phí quản lý bình quân trên số lượng lao động và trên số lượng chi nhánh/phòng giao dịch thì Agribank ở mức thấp nhất so với các ngân hàng lớn trên thị trường (Bảng 2).
Một đặc thù ở Agribank là số lượng khách hàng vay hộ, cá nhân với những khoản vay nhỏ lẻ rất lớn, lớn nhất so với bất cứ ngân hàng nào.
Hiện tại, ngân hàng đang quản lý 3,7 triệu khoản vay. Bình quân mỗi cán bộ tín dụng phụ trách 1.000 món/khoản vay trên địa bàn 3 – 4 xã.
Do vậy, Agribank buộc phải xây dựng mô hình tổ vay vốn với con số gần 70 nghìn tổ. Mỗi khi ngân hàng có sản phẩm, chủ trương từ Ngân hàng Nhà nước hoặc chính sách mới từ Chính phủ như cho vay đầu tư tàu các đánh bắt xa bờ, cho vay tái canh cà phê, cho vay khuyến khích ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp… đều phải tổ chức các hội nghị tập huấn ở các tổ vay vốn này.
Chỉ tiêu |
Agribank |
BIDV |
VietinBank |
Vietcombank |
Chi phí quản lý (triệu đồng) |
4.515.821 |
3.219.520 |
3.026.016 |
3.511.915 |
Số lượng lao động |
37.509 |
24.076 |
22.564 |
19.518 |
Số lượng chi nhánh/PGD |
2.226 |
1.096 |
1.158 |
589 |
Chi phí quản lý/lao động |
120 |
134 |
134 |
180 |
Chi phí quản lý/số lượng chi nhánh/PGD |
2.029 |
2.938 |
2.613 |
5.963
|
Bảng 2: Tương quan chi phí quản lý của Agribank so với các ngân hàng Nguồn: VnEconomy tổng hợp các báo cáo tài chính riêng lẻ đã kiểm toán.
Bởi vậy, nếu xét quy mô số tuyệt đối, chi phí cho các hội nghị phổ biến chính sách hướng dẫn thủ tục, hồ sơ khách hàng, khánh tiết… tại Agribank thường lớn hơn so với một số ngân hàng có tệp khách hàng ở các trung tâm kinh tế, vốn có số lượng nhỏ hơn nhiều lần.
Agribank đang quản lý 3,7 triệu khoản vay. Bình quân mỗi cán bộ tín dụng phụ trách 1.000 món/khoản vay trên địa bàn 3 – 4 xã. Do vậy, Agribank buộc phải xây dựng mô hình tổ vay vốn với con số gần 70 nghìn tổ và thường xuyên tổ chức hội nghị tập huấn nghiệp vụ, hội nghị khách hàng...
Một điểm đáng lưu ý, mặc dù Agribank mang danh là ngân hàng thương mại nhưng phải đảm nhiệm “hai vai”: vừa thực hiện vai trò của một tổ chức tín dụng mang tính chính sách, vừa kinh doanh trong môi trường thương mại cạnh tranh bình đẳng.
Năm 2020, ngân hàng giảm thu nhập 5.100 tỷ đồng do thực hiện miễn, giảm lãi suất. Kéo theo cả năm 2020, tổng lợi nhuận trước thuế đạt 13.203 tỷ đồng, giảm 731 tỷ đồng, tương ứng giảm 5,25% so với 2019.
Link nội dung: https://vietnamindex.vn/agribank-dang-lam-gi-truoc-them-co-phan-hoa-a48213.html