Ngang nhiên xẻ thịt hơn 23 ha đất vàng
Phó tổng Thanh tra Chính phủ (TTCP) Trần Ngọc Liêm ngày 29/6/2021 đã ký văn bản số 1016/TB-TTCP thông báo kết luận thanh tra toàn diện việc chấp hành các quy định của pháp luật về công tác quản lý, sử dụng đất đai, tài sản công tại Khu HTTQG, thời kỳ thanh tra từ ngày 1/1/2009 đến ngày 31/12/2018.
Đáng chú ý, kết luận nêu rõ: Việc cho thuê mặt bằng các khu đất đã đền bù giải phóng mặt bằng (GPMB) đang chờ thực hiện dự án (giai đoạn 2009-2018) trong Khu LHTTQG là sai phạm nghiêm trọng. Chính vì vậy TTCP Đề nghị Bộ Công an điều tra sai phạm tại nội dung này.
Cụ thể, khu đất đã đền bù GPMB chờ thực hiện dự án có diện tích khoảng 23,41 ha, nằm trong diện tích 247 ha được Thủ tướng Chính phủ tạm giao cho Khu LHTTQG quản lý theo Quyết định số 981/QĐ-TTg ngày 22/10/1999.
Việc Khu LHTTQG Mỹ Đình cho thuê mặt bằng các khu đất đã đền bù giải phóng mặt bằng đang chờ thực hiện dự án (giai đoạn 2009-2018) là sai phạm nghiêm trọng.
Giai đoạn từ 2009 đến 2018, Khu LHTTQG đã ký tổng số 202 hợp đồng và 68 phụ lục hợp đồng cho thuê mặt bằng các khu đất với khoảng 42 doanh nghiệp. Tất cả các hợp đồng cho thuê mặt bằng Khu LHTTQG ký với các doanh nghiệp trong năm 2018 được thanh lý vào thời điểm ngày 30/4/2018.
Theo kết luận của TTCP, Khu LHTTQG được tạm giao quản lý các khu đất đã đền bù GPMB đang chờ thực hiện dự án nhưng chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định chính thức giao đất hay cho thuê đất. Khu LHTTQG đã sử dụng đất để cho các cá nhân, doanh nghiệp thuê mặt bằng để xây dựng nhà xưởng, văn phòng phục vụ mục đích sản xuất, kinh doanh dưới hình thức hợp đồng cho thuê mặt bằng có thời gian 3 tháng, 6 tháng, 1 năm nhưng bản chất là cho thuê mặt bằng dài hạn.
Trong quá trình sử dụng đất (là tài sản nhà nước, tài sản công) để cho thuê mặt bằng, Khu LHTTQG có rất nhiều sai phạm, vi phạm các quy định của pháp luật về đất đai, quản lý, sử dụng tài sản nhà nước, tài sản công, quản lý thuế.
Cụ thể: Việc sử dụng đất cho cá nhân, doanh nghiệp thuê mặt bằng để xây dựng nhà xưởng, văn phòng, phục vụ mục đích sản xuất, kinh doanh là không đúng quy hoạch, không đúng mục đích sử dụng đất, vi phạm Điều 11, Điều 15 Luật Đất đai năm 2003, Điều 6, Điều 12 Luật Đất đai năm 2013; Trái quy định tại Khoản 2 Điều 16 Luật Quản lý sử dụng tài sản Nhà nước (giai đoạn 2009-2011); Chưa được Bộ VHTTDL quyết định cho thuê tài sản nhà nước theo quy định tại Khoản 3 Điều 43 Nghị định số 52/2009/NĐ-CP của Chính phủ (giai đoạn năm 2012-2017); Không lập đề án sử dụng tài sản công theo quy định tại Điều 44 Nghị định số 151/2017/NĐ-CP của Chính phủ, không được Bộ VHTTDL cho phép, phê duyệt đề án cho thuê quy định tại Điều 57 Luật QLSDTSC, vi phạm quy định tại Điều 10 Luật QLSDTSC (năm 2018); Không đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được Tổng cục TDTT, Bộ VHTTDL quy định (giai đoạn 2009-2018); vi phạm quy định tại Điều 13 Nghị định số 105/2009/NĐ-CP ngày 11/11/2009, Điều 13 Nghị định số 102/2014/NĐ-CP ngày 10/11/2014 của Chính phủ.
Từ trước ngày 6/7/2014, Khu LHTTQG không thực hiện xây dựng Quy chế quản lý, sử dụng tài sản theo quy định tại Điều 9 Thông tư số 245/2009/TT-BTC của Bộ Tài chính.
Từ ngày 7/7/2014 đến nay, Giám đốc Khu LHTTQG ban hành 3 Quy chế quản lý, sử dụng, khai thác cơ sở vật chất nhưng chỉ quy định về đơn giá cho thuê mặt bằng (12.000 đồng/m2/tháng - 20.000 đồng/m2/tháng) mà không quy định về nộp tiền thuê đất; không thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định tại Khoản 3 Điều 170 Luật Đất đai năm 2013.
Giám đốc “Ưu ái” người thuê, nhà nước giảm thu hơn 9 tỷ đồng
Trong suốt quá trình cho thuê mặt bằng các khu đất, Khu LHTTQG chưa nộp hồ sơ khai thuế cho cơ quan thuế; không làm đầy đủ thủ tục khi cho thuê đất theo quy định tại Khoản 2 Điều 107 Luật Đất đai năm 2003, Khoản 2 Điều 170 Luật Đất đai năm 2013.
Khu LHTTQG không nộp tiền thuê đất vi phạm Khoản 6 Điều 6, Khoản 2 Điều 33 Luật QLSDTSNN; Khoản 1 Điều 29 Thông tư số 245/2009/TT-BTC của Bộ Tài chính; Khoản 2 Điều 10 Luật QLSDTSC; không đúng theo quy định tại Khoản 3 Điều 107 Luật Đất đai năm 2003, Khoản 3 Điều 170 Luật Đất đai năm 2013; Không thực hiện công khai (năm 2009-2012), cố ý không thực hiện công khai (từ năm 2013) các hợp đồng cho thuê mặt bằng tại các khu đất, vi phạm quy định tại Điều 28 Thông tư số 245/2009/TT-BTC, Khoản 3 Điều 14 Thông tư số 23/2016/TT-BTC của Bộ Tài chính.
Năm 2018, Khu LHTTQG Mỹ Đình ký hợp đồng với 17 doanh nghiệp nhưng thực tế có 144 doanh nghiệp sử dụng mặt bằng đất.
Các hợp đồng đều có quy định doanh nghiệp không được cho thuê lại mặt bằng nhưng hầu hết các doanh nghiệp đều cho thuê lại mặt bằng, giá cho thuê lại cao gấp 3 lần giá Khu LHTQG cho thuê (năm 2018, Khu LHTTQG ký hợp đồng với 17 doanh nghiệp nhưng thực tế có 144 doanh nghiệp sử dụng mặt bằng đất).
Giám đốc Khu LHTQG giảm trừ tiền, thời gian, tính tiền thuê mặt bằng cho 15 doanh nghiệp với lý do không rõ ràng, chưa khách quan, không được thông qua Đảng ủy, Ban Giám đốc, Công đoàn; cho 7 doanh nghiệp thuê mặt bằng với đơn giá thấp hơn trong Quy chế quản lý, sử dụng, khai thác cơ sở vật chất.
Khu LHTTQG chưa thu được hết tiền cho thuê mặt bằng của 5 doanh nghiệp; hạch toán thiếu công nợ phải thu của Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu và Đầu tư Kinh Bắc từ năm 2012; làm giảm nguồn thu của Khu LHTTQG với tổng số tiền 9.359,61 triệu đồng.
Khu LHTTQG đã thanh lý hợp đồng cho thuê ngày 30/4/2018 nhưng vẫn để một số doanh nghiệp tiếp tục cho thuê lại mặt bằng sau thời điểm thanh lý.
Có dấu hiệu thất thu hàng trăm tỷ đồng
Thanh tra Chính phủ cũng chỉ ra, theo quy định của pháp luật về đất đai, pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước, tài sản công, việc Khu LHTTQG sử dụng đất để cho thuê mặt bằng thuộc đối tượng phải nộp tiền thuê đất.
Tuy nhiên, Khu LHTTQG chỉ thu tiền cho thuê mặt bằng các khu đất từ doanh nghiệp (Số tiền thu được đã được chi hết cho hoạt động của Khu LHTTQG) mà không thu tiền thuê đất của các doanh nghiệp để nộp NSNN, số tiền thuê đất phải nộp NSNN nhưng chưa nộp giai đoạn 2009 - 2018 (tạm tính) khoảng 485 tỷ đồng.
Từ ngày 1/1/2018 đến ngày 6/5/2018: Trong hợp đồng cho thuê mặt bằng các khu đất có quy định nội dung nộp tiền thuê đất. Khu LHPTQG đã ký biên bản thanh lý hợp đồng nhưng trong biên bản thanh lý hợp đồng vẫn còn ràng buộc nội dung về nộp tiền thuê đất, đến nay Khu LHTTQG chưa thu tiền thuê đất của các doanh nghiệp để nộp Ngân sách Nhà nước (NSNN) số tiền hơn 22 tỷ đồng.
Theo quy định của Luật Quản lý thuế và một số văn bản quy phạm pháp luật, Khu LHTTQG phải nộp NSNN số tiền chậm nộp tiền thuê đất nhưng chưa nộp là 174 tỷ đồng (tạm tính từ 1/7/2013 đến 31/12/2018).
Quá trình Khu LHTTQG cho thuê mặt bằng các khu đất đã GPMB đang chờ thực hiện dự án có một số vi phạm, sai phạm có dấu hiệu bất thường. Tổng số tiền thuê đất Khu LHTTQG phải nộp NSNN nhưng chưa nộp (tạm tính) gần 659 tỷ đồng. Số tiền này Khu LHTTQG không có khả năng nộp, có dấu hiệu gây thất thu tiền NSNN.
Tại kết luận TTCP cũng chi ra, Ban Quản lý dự án Khu LHTTQG và Công ty TNHH Tân An Bình đã ký Hợp đồng hợp tác đầu tư xây dựng trạm phân phối Gas Khu LHTQG số 027/HĐKT-KH ngày 7/3/2003, Công ty TNHH Tân An Bình sử dụng là 865 m2 đất nằm trong khuôn viên khu đất Cung thể thao dưới nước (khu đất này được UBND TP Hà Nội cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 5/2/2007 cho Khu LHTTQG với hình thức giao đất không thu tiền sử dụng đất); trong hợp đồng hợp tác đầu tư không có quy định nghĩa vụ tài chính về đất đối với Công ty TNHH Tân An Bình.
Sai phạm này cũng được Thanh tra Chính phủ đề nghị Bộ Công an vào cuộc điều tra.
Việc ký hợp đồng liên doanh, liên kết với Công ty cổ phần Dịch vụ và Đầu tư Viên Thành (Dự án Khu Dịch vụ văn hóa du lịch Hoa An Viên) 15 năm không đúng với thời hạn 10 năm mà Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cho phép.
Liên quan đến các sai phạm trên, chiều 5/7, Cục Thuế TP Hà Nội cho rằng, Khu LHTTQG Mỹ Đình là đơn vị sự nghiệp tự chủ tài chính. Trong quá trình hoạt động Khu LHTTQG Mỹ Đình đã triển khai các dự án liên doanh, liên kết có thời hạn với các đơn vị tại một số khu đất lưu không và ký các hợp đồng cho thuê mặt bằng ngắn hạn tại các khu đất quy hoạch xây dựng nhưng chưa triển khai.
Theo quy định pháp luật, Khu LHTTQG Mỹ Đình phải sử dụng đất đúng theo các quy định của Luật đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành. Khi phát sinh các hoạt động kinh doanh và sử dụng đất không đúng Quyết định giao đất, Hợp đồng thuê đất của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thì phải báo cáo và tuân theo các trình tự, thủ tục pháp luật về đất đai quy định. Sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý về đất đai chấp thuận, đơn vị có trách nhiệm thực hiện kê khai và nộp nghĩa vụ tài chính phát sinh theo quy định của Luật Quản lý thuế.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, Khu LHTTQG Mỹ Đình đã không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, kịp thời các quy định của pháp luật. Trong quá trình quản lý thuế, cơ quan thuế đã đề nghị Khu LHTTQG Mỹ Đình giải trình, cung cấp các Hợp đồng liên doanh, liên kết, cho thuê. Trên cơ sở các tài liệu đơn vị cung cấp, Cục Thuế TP Hà Nội đã phối hợp với các Sở, ngành của Thành phố hướng dẫn, đôn đốc, yêu cầu đơn vị thực hiện theo các quy định của pháp luật.
Cơ quan Thuế cũng đã ban hành các thông báo thu tiền thuê đất, truy thu tiền thuê đất đối với đơn vị. Khi Khu LHTTQG Mỹ Đình không chấp hành nộp, từ năm 2018 đến nay, cơ quan Thuế đã nhiều lần áp dụng các quyết định cưỡng chế theo đúng quy định của pháp luật về quản lý thuế.
Ngay khi có Kết luận thanh tra, Cục Thuế TP Hà Nội đã có văn bản tham mưu UBND TP Hà Nội chỉ đạo các Sở, ngành tiếp tục phối hợp với cơ quan Thuế trong việc đôn đốc Khu LHTTQG Mỹ Đình nộp tiền thuê đất còn nợ đọng theo thông báo truy thu, thông báo nộp của cơ quan Thuế; đồng thời đã ban hành ngay văn bản chỉ đạo các đơn vị thuộc và trực thuộc Cục Thuế TP Hà Nội triển khai thực hiện các nội dung cơ quan thanh tra kiến nghị.