Lý do Ngân hàng Nhà nước khó nới thêm room tín dụng

20/09/2022 16:22

Tham gia thảo luận tại Tọa đàm cấp cao trong khuôn khổ Diễn đàn Kinh tế - Xã hội Viêt Nam 2022, các chuyên gia, nhà nghiên cứu, nhà quản lý cho rằng, Việt Nam đã phối hợp linh hoạt chính sách tài khóa, tiền tệ để thích ứng tốt trong bối cảnh quốc tế tiềm ẩn nguy cơ lạm phát và suy thoái. Các chuyên gia cho rằng cần sẵn sàng nghiên cứu kỹ lưỡng, chủ động trong các giải pháp tài khóa, để có các phương án, kịch bản đa dạng ứng phó với các biến cố.

Tại Phiên thảo luận trong khuôn khổ Diễn đàn Kinh tế - Xã hội Viêt Nam 2022, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Phạm Thanh Hà cho biết, về điều hành chính sách tiền tệ nói chung, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phải giải bài toán với nhiều yếu tố khác nhau, mục tiêu đặt ra là kiểm soát lạm phát, đồng thời đảm bảo an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, đảm bảo thanh khoản cho các thị trường tiền tệ, ngoại hối. Các biến số như lãi suất, tỷ giá đều được đưa vào bài toán tổng thể này.

Trong năm 2022, tình hình thế giới rất phức tạp và khó lường, chưa từng có tiền lệ, rủi ro của các nền kinh tế, hệ thống tài chính, ngân hàng là rất lớn, kìm hãm lạm phát là ưu tiên hàng đầu của nhiều nền kinh tế lớn. Nhiều ngân hàng trung ương của nhiều nước trên thế giới đã chần chừ do đánh giá lạm phát là tạm thời do đứt gãy chuỗi cung ứng, tuy nhiện lạm phát kéo dài hơn dự kiến cho thấy vấn đề thực sự phức tạp hơn, các ngân hàng trung ương đã tăng nhanh lãi suất, dẫn đến nguy cơ suy thoái.

Trước bối cảnh đó, Ngân hàng nhà nước đã gặp nhiều khó khăn trong điều hành và đã sử dụng nhiều biện pháp để ổn định thị trường tiền tệ, ổn định lãi suất. Tuy nhiên, áp lực lạm phát còn lớn và kéo dài, còn nhiều áp lực trong việc kìm hãm lạm phát trong năm 2023 sắp tới, nên Ngân hàng Nhà nước cần hết sức chú trọng công tác này.

Về chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng, trong hơn 10 năm qua, biện pháp hành chính đã thể hiện được sự hiệu quả trong ổn định hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng, góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối. Trước năm 2011, tăng trưởng tín dụng rất cao, ở mức trên 30%. Trong 10 năm trở lại đây, Ngân hàng Nhà nước đã cố gắng điều hành tăng trưởng tín dụng ở mức 12 – 14%.

Để tăng trưởng kinh tế, cần nhiều nguồn vốn khác nhau, không chỉ là tín dụng ngân hàng, mà bản thân nền kinh tế cần có vốn, chủ thể đầu tư. Các kênh dẫn vốn cho nền kinh tế gồm cổ phiếu, trái phiếu, đầu tư công, nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Cần khơi thông đầy đủ các kênh vốn này. Trong nhiều năm trở lại đây, áp lưc tăng trưởng tín dụng luôn ở mức cao. Sau 10 năm, quy mô nền kinh tế tăng 2.7 lần. Quy mô tín dụng tăng 4.4 lần. Năm nay, Ngân hàng nhà nước đã tính toán mức tăng trưởng tín dụng hỗ trợ cho phát triển kinh tế khoảng 14%, là mức cao hơn hai năm trước. Trong bối cảnh nhiều biến động và thách thức, Ngân hàng Nhà nước vẫn cố gắng để đạt được mức cao này.

vietstock-s-ly-do-ngan-hang-nha-nuoc-kho-noi-them-room-tin-dung-20220918212841-1663658598.png
Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Phạm Thanh Hà. Ảnh: Quochoi.vn.

 

"Tăng trưởng tín dụng 14% là hợp lý"

Tham gia thảo luận, TS.Võ Trí Thành, nguyên Phó Viện trưởng CIEM cho biết, việc lựa chọn chính sách tiền tệ và tài khóa trong trạng thái kinh tế lạm phát cao, rủi ro vĩ mô lớn, sản xuất đình trệ, là rất phức tạp, khó khăn thách thức. Nhà hoạch định chính sách đứng trước cả hai nguy cơ: lạm phát và suy thoái. Phần lớn các nước đã lựa chọn hy sinh tăng trưởng để kìm hãm lạm phát bằng các biện pháp thắt chặt, tăng lãi suất. Trong tình hình này, Việt Nam đã có lựa chọn khác, vừa thúc đẩy phục hồi, vừa ổn định kinh tế vĩ mô.

Theo TS.Võ Trí Thành, lựa chọn này có cơ sở là cuối năm 2021, vị thế tài khóa ngân sách của VN tương đối tốt, thâm hụt, tỷ lệ nợ công của Việt Nam ở mức khả quan. Do vậy, Việt Nam đã quyết định dựa nhiều vào chính sách tài khóa, ngay cả việc hỗ trợ 2% thuế giá trị gia tăng, nguồn tiền hỗ trợ đều nhờ ngân sách, chưa cần dùng đến chính sách tiền tệ. Việc lựa chọn này là hợp lý, do chính sách tài khóa khi ít gây áp lực cho lạm phát hơn, đồng thời cũng có dư địa lớn hơn so với chính sách tiền tệ. Việc tập trung vào chính sách tài khóa cũng đã tạo dư địa cho chính sách tiền tệ để ứng phó với những rủi ro, bất định.

TS.Võ Trí Thành nhấn mạnh, kết quả của lựa chọn chính xác này là khi tình hình quốc tế có biến động mạnh, tình hình tài khóa của nước ta vẫn vững vàng, thu ngân sách tám tháng đầu năm tăng cao, chúng ta vẫn tiếp tục thực hiện nới tài khóa, cẩn thận và linh hoạt với chính sách tiền tệ.

Về chính sách tiền tệ, TS.Võ Trí Thành cho rằng con số 14% là hợp lý về cả ngắn hạn lẫn dài hạn. Nếu nới lỏng hơn thì áp lực lên tỷ giá còn lớn, gây áp lực lên lãi suất, tạo nguy cơ chảy máu vốn. Tăng tín dụng của Việt Nam lên 14% không phải quá nới lỏng, nhưng cũng không phải thắt chặt, tỷ lệ tín dụng trên GDP là 124%, mức rất rủi ro, nhưng các hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã tăng vốn để đảm bảo an toàn. Đó sẽ là cơ sở để tính toán mức tăng tín dụng hợp lý. TS.Võ Trí Thành cho rằng cần vận dụng chính sách tiền tệ linh hoạt hơn nữa, tập trung vào sản xuất kinh doanh, hạn chế các lĩnh vực rủi ro, kiểm soát chặt chẽ phần đầu tư cho trung, dài hạn, để bổ sung cho một số lĩnh vực kinh doanh phù hợp tùy theo chu kỳ kinh doanh của ngành

Trình giảm thêm thuế xăng dầu

Tại tọa đàm, Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Chi cho biết tác động của đại dịch và xung đột chính trị đã gây ảnh hưởng nhiều mặt với nền kinh tế Việt Nam.

"Trước tình hình đó, các chính sách miễn giảm, hoãn thuế đã có tác động trực tiếp đối với tình hình kinh tế, đời sống người dân. Nhiều chính sách tài khóa, như gói chính sách tài chính hỗ trợ người lao động thuê nhà, gói hỗ trợ doanh nghiệp được triển khai đem lại hiệu ứng tích cực", ông Chi bình luận.

Bên cạnh đó, Chính phủ đang chỉ đạo Bộ Tài chính tiếp tục nghiên cứu các chính sách thuế về thuế bảo vệ môi trường, thuế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt để trình Quốc hội trong kỳ họp sắp tới, để có công cụ linh hoạt ứng phó với các tình huống giá năng lượng, xăng dầu biến động mạnh mẽ, gây ảnh hưởng lớn đến đời sống người dân.

vietstock-s-ly-do-ngan-hang-nha-nuoc-kho-noi-them-room-tin-dung-20220918212843-1663658629.png
Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Chi. Ảnh: Quochoi.vn.

 

Tại tọa đàm, ông Chi cũng nêu 5 nhóm giải pháp để phát triển thị trường trái phiếu thành kênh dẫn vốn trung và dài hạn của nền kinh tế.

Các giải pháp bao gồm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý của thị trường, đa dạng và cải thiện cầu đầu tư trái phiếu doanh nghiệp và nâng cao chất lượng của những định chế trung gian tài chính tham gia vào quá trình phát hành trái phiếu doanh nghiệp.

Cùng với đó là tăng cường giám sát, kiểm tra trong quá trình phát hành trái phiếu; truyền thông minh bạch, kịp thời đến công chúng.

"Trái phiếu doanh nghiệp là chủ đề rất được quan tâm trong chiến lược phát triển thị trường chứng khoán, cũng như định hướng phát triển thị trường vốn trái phiếu doanh nghiệp", vị thứ trưởng khẳng định.

Bạn đang đọc bài viết "Lý do Ngân hàng Nhà nước khó nới thêm room tín dụng" tại chuyên mục Tài chính. Mọi bài vở cộng tác xin liên hệ hotline (0909415194) hoặc gửi về địa chỉ email (bbt@vietnamindex.vn).  
Mọi bài vở cộng tác xin gọi hotline (0909415194) hoặc gửi về địa chỉ email (bbt@vietnamindex.vn).