Cụ thể, ngày 19/5, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã ban hành Quyết định số 326/QĐ-UBCK về việc đặt Công ty CP chứng khoán Kenanga Việt Nam vào tình trạng kiểm soát đặc biệt. Thời hạn kiểm soát đặc biệt trong vòng 4 tháng, từ ngày 19/5 đến ngày 18/9.
Hiện tại không có thông tin về hoạt động của công ty chứng khoán này bởi vào cuối năm 2013, Kenanga Việt Nam đã nộp hồ sơ đề nghị chấm dứt tư cách thành viên giao dịch thị trường niêm yết và thành viên giao dịch thị trường đăng ký giao dịch tại Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) và Sở Giao dịch chứng khoán TP.HCM (HOSE).
Đến tháng 9/2015, Trung tâm Lưu ký Chứng khoán Việt Nam đã có quyết định ngừng cung cấp hoạt động bù trừ và thanh toán giao dịch chứng khoán đối với Chứng khoán Kenanga Việt Nam (KVS) do bị Sở Giao dịch chứng khoán chấm dứt tư cách thành viên giao dịch. Điều này đồng nghĩa công ty đã ngưng hoạt động cung cấp dịch vụ cho nhà đầu tư chứng khoán.
Công ty cổ phần chứng khoán Kenanga Việt Nam tiền thân là Công ty cổ phần chứng khoán Vàng Việt Nam, được thành lập ngày 3/12/2007 với vốn 40 tỉ đồng.
Ngày 13/11/2008, công ty đổi tên thành Kenanga Việt Nam và tăng vốn lên 135 tỉ đồng vào năm 2009 với sự tham gia của đối tác chiến lược là Tập đoàn Ngân hàng Đầu tư K&N Kenanga Holdings Berhard.
Việc Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đưa Chứng khoán Kenanga Việt Nam vào diện kiểm soát đặc biệt được quy định trong Thông tư 91/2020 của Bộ Tài chính, quy định chỉ tiêu an toàn tài chính và biện pháp xử lý đối với tổ chức kinh doanh chứng khoán không đáp ứng chỉ tiêu an toàn tài chính.
Theo Điều 16 Thông tư 91/2020/TT-BTC quy định Ủy ban Chứng khoán Nhà nước ra quyết định đặt tổ chức kinh doanh chứng khoán vào tình trạng kiểm soát đặc biệt nếu rơi vào một trong các trường hợp sau: Một là, tỷ lệ vốn khả dụng do công ty tự tính hoặc đã được soát xét, kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán được chấp thuận dưới 120%.
Hai là, không khắc phục được tình trạng kiểm soát trong thời hạn 12 tháng.
Ba là, không thực hiện báo cáo tỷ lệ an toàn tài chính trong 2 kỳ báo cáo liên tiếp, hoặc không thực hiện kiểm toán hoặc soát xét báo cáo tỷ lệ an toàn tài chính hoặc không công bố thông tin về báo cáo tỷ lệ an toàn tài chính đã được soát xét, kiểm toán.
Bốn là, báo cáo tỷ lệ an toàn tài chính mà tổ chức kiểm toán được chấp thuận đưa ra ý kiến không chấp nhận, từ chối đưa ra ý kiến, ý kiến ngoại trừ một số các chỉ tiêu của báo cáo này mà nếu trừ các ảnh hưởng ngoại trừ ra khỏi vốn khả dụng dẫn tới tỷ lệ vốn khả dụng dưới 120%.
Thời hạn kiểm soát đặc biệt không quá 4 tháng, kể từ ngày tổ chức kinh doanh chứng khoán bị đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt.
Sau thời hạn 1 tháng, Sở giao dịch Chứng khoán thực hiện đình chỉ một phần hoạt động của công ty chứng khoán thành viên không khắc phục được tình trạng kiểm soát đặc biệt. Việc đình chỉ sẽ kết thúc khi công ty chứng khoán được UBCKNN quyết định đưa ra khỏi tình trạng kiểm soát đặc biệt.
UBCKNN xem xét đưa tổ chức kinh doanh chứng khoán ra khỏi tình trạng kiểm soát đặc biệt khi tỷ lệ vốn khả dụng đạt từ 180% trở lên trong 3 tháng liên tục, trong đó tỷ lệ vốn khả dụng tại kỳ báo cáo cuối cùng phải được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán được chấp thuận và tổ chức kinh doanh chứng khoán có báo cáo UBCKNN về việc khắc phục tình trạng kiểm soát đặc biệt.
Sau khi hết thời hạn kiểm soát đặc biệt, nếu tổ chức kinh doanh chứng khoán vẫn không khắc phục được tình trạng kiểm soát đặc biệt thì sẽ bị đình chỉ hoạt động. Trong vòng 24 giờ, kể từ khi tổ chức kinh doanh chứng khoán bị đình chỉ hoạt động, UBCKNN công bố thông tin về việc này trên trang thông tin điện tử của UBCKNN.
Sau 6 tháng kể từ ngày quyết định đình chỉ có hiệu lực, UBCKNN ra quyết định rút nghiệp vụ môi giới chứng khoán trong trường hợp công ty chứng khoán không khắc phục được tình trạng bị đình chỉ.
Trong thời hạn tối đa 7 ngày kể từ ngày UBCKNN ra quyết định đặt tổ chức kinh doanh chứng khoán vào tình trạng kiểm soát đặc biệt, tổ chức kinh doanh chứng khoán phải gửi UBCKNN báo cáo chi tiết về thực trạng tài chính, nguyên nhân và phương án khắc phục.